Những năm gần đây dân chơi cá rồng bắt đầu thích thú với những con cá SAM ( cá đuối nước ngọt ) bởi vẻ đẹp kiêu kỳ cũng như chúng thích hợp nuôi chung với cá rồng.
Chắc hẵn dân chơi cá rồng ai cũng muốn sỡ hữu được những chú cá SAM dị tật như trong hình này
- Các loại cá đuối được nuôi làm cảnh
Đa số cá đuối được nuôi cảnh ngày nay, và là trọng tâm của bài này, đều thuộc họ Potamotrygonidae, phân lớp mang tấm Elasmobranch mà chúng bao gồm hơn 22 loài thuần nước ngọt. Tại thời điểm hiện tại, còn rất nhiều điều để nghiên cứu về sự khác biệt giữa chúng, rằng chúng có phải là những phân loài hay quan hệ với nhau ở mức độ như thế nào. Có rất nhiều biến thể màu sắc, kích thước và hoa văn khác nhau. Cá đuối đen với những đốm trắng nổi bật, chẳng hạn như leopoldi, henlei và loài đuối đen đốm nhỏ itaituba ít phổ biến hơn phân bố ở vùng nước trong (clear water) phía nam sông Amazon. Hai trong số những loài có hoa văn ấn tượng là cá đuối hổ (tiger ray) dựa trên hoa văn nổi bật và đốm trên đuôi phân bố ở Amazon Peru và loài có hoa văn tương tự là cá đuối hoa (flower ray) phân bố ở phía bắc sông Amazon trong các nhánh sông vùng biên giới giữa Colombia,Venezuela và Brazil. Còn nhiều biến thể địa phương tuy hoa văn không đẹp bằng nhưng cũng rất thú vị. Cá đuối castexi, một trong những loài đa hình thái nhất với những dạng hoa văn hoàn toàn khác biệt, phân bố chủ yếu ở phía tây sông Amazon với những biến thể như otorongo (báo), motello (rùa), hawaiian, tigrinus và những biến thể khác được đặt theo dạng hoa văn xinh đẹp của chúng.
- Cá đuối - hiểm họa với người này, báu vật với người kia
“Ở Amazon mọi thứ đều có thể”. Vào mùa nước rút, khi cá tụ vào những khu vực nhỏ, sông chính và kênh dẫn nước, là giai đoạn tương đối an toàn để đi đến những vùng xa xôi và khảo sát phân bố của cá đuối; nhưng giai đoạn này tương đối ngắn ngủi, chỉ khoảng từ 4 đến 5 tháng trước khi trời mưa trở lại và mực nước lại dâng cao một cách nhanh chóng. Phần lớn lưu vực sông Amazon còn chưa được khảo sát, và sự thay đổi dòng chảy của các con sông khiến cho việc xác định phân bố và quần thể cá ở Amazon hầu như là điều bất khả. Một vài quần thể cá đuối bùng phát mạnh đến độ trở thành hiểm họa đối với các bãi cát ven sông. Những bãi cát phổ biến ở Brazil phải mướn nhân công để tiêu diệt cá đuối, vốn thường tụ tập cả “bầy” nằm phơi nắng dưới cát trong vùng nước nông vào ban ngày, ngay nơi mà những người đi tắm qua lại. Nhìn chung, những con cá đuối này bị giết và để thối rữa, làm mồi cho những loài ăn xác thối (scavenger). Điều này chắc chắn là đáng tiếc bởi vì chúng có thể được đem bán cho thị trường cá cảnh và thu được khối tiền. Một vài biến thể cá đuối chỉ phân bố ở những vùng nhất định và rất hiếm, chẳng hạn như cá đuối trân châu (pearl ray). Cá đuối cũng là loài cá thịt quan trọng. Cả hai góp phần vào việc chính phủ Brazil đề ra hạn ngạch xuất khẩu cá đuối hàng năm. Tuy nhiên, hạn ngạch này thường gây ra nghịch lý. Bởi vì nhiều loài cá đuối đáng giá trên thị trường cá cảnh hơn rất nhiều so với thịt của chúng. Một con henlei, leopoldi hay cá đuối trân châu còn sống trên thị trường cá cảnh thường có giá hơn lượng thịt mà một làng tiêu thụ trong vòng một tuần hay đủ cung cấp sữa cho cả năm trời. Ngoài một số ngoại lệ, hầu hết các loài cá đuối đều có số lượng đông đảo trong môi trường phân bố tự nhiên của chúng và bị coi là hiểm họa, điều cổ xúy cho lối suy nghĩ rằng việc buôn lậu cá đuối vào mùa cấm hay khi hết hạn ngạch xuất khẩu là chấp nhận được. Luật cung cầu chi phối thị trường này, và giá bán lẻ cao làm gia tăng động cơ. Cá đuối lậu thường đắt tiền hơn và không mạnh khỏe bằng cá xuất khẩu qua những kênh hợp pháp bởi vì chúng phải trải qua quá trình vận chuyển cực kỳ khó khăn. Có rất nhiều câu chuyện về cá đuối (và cả những loài động-thực vật lậu khác) được giấu bên trong các can đựng dầu hay dưới khoang thuyền chài. Rất may là chúng không vừa với túi quần!
Chắc hẵn dân chơi cá rồng ai cũng muốn sỡ hữu được những chú cá SAM dị tật như trong hình này
- Các loại cá đuối được nuôi làm cảnh
Đa số cá đuối được nuôi cảnh ngày nay, và là trọng tâm của bài này, đều thuộc họ Potamotrygonidae, phân lớp mang tấm Elasmobranch mà chúng bao gồm hơn 22 loài thuần nước ngọt. Tại thời điểm hiện tại, còn rất nhiều điều để nghiên cứu về sự khác biệt giữa chúng, rằng chúng có phải là những phân loài hay quan hệ với nhau ở mức độ như thế nào. Có rất nhiều biến thể màu sắc, kích thước và hoa văn khác nhau. Cá đuối đen với những đốm trắng nổi bật, chẳng hạn như leopoldi, henlei và loài đuối đen đốm nhỏ itaituba ít phổ biến hơn phân bố ở vùng nước trong (clear water) phía nam sông Amazon. Hai trong số những loài có hoa văn ấn tượng là cá đuối hổ (tiger ray) dựa trên hoa văn nổi bật và đốm trên đuôi phân bố ở Amazon Peru và loài có hoa văn tương tự là cá đuối hoa (flower ray) phân bố ở phía bắc sông Amazon trong các nhánh sông vùng biên giới giữa Colombia,Venezuela và Brazil. Còn nhiều biến thể địa phương tuy hoa văn không đẹp bằng nhưng cũng rất thú vị. Cá đuối castexi, một trong những loài đa hình thái nhất với những dạng hoa văn hoàn toàn khác biệt, phân bố chủ yếu ở phía tây sông Amazon với những biến thể như otorongo (báo), motello (rùa), hawaiian, tigrinus và những biến thể khác được đặt theo dạng hoa văn xinh đẹp của chúng.
- Cá đuối - hiểm họa với người này, báu vật với người kia
“Ở Amazon mọi thứ đều có thể”. Vào mùa nước rút, khi cá tụ vào những khu vực nhỏ, sông chính và kênh dẫn nước, là giai đoạn tương đối an toàn để đi đến những vùng xa xôi và khảo sát phân bố của cá đuối; nhưng giai đoạn này tương đối ngắn ngủi, chỉ khoảng từ 4 đến 5 tháng trước khi trời mưa trở lại và mực nước lại dâng cao một cách nhanh chóng. Phần lớn lưu vực sông Amazon còn chưa được khảo sát, và sự thay đổi dòng chảy của các con sông khiến cho việc xác định phân bố và quần thể cá ở Amazon hầu như là điều bất khả. Một vài quần thể cá đuối bùng phát mạnh đến độ trở thành hiểm họa đối với các bãi cát ven sông. Những bãi cát phổ biến ở Brazil phải mướn nhân công để tiêu diệt cá đuối, vốn thường tụ tập cả “bầy” nằm phơi nắng dưới cát trong vùng nước nông vào ban ngày, ngay nơi mà những người đi tắm qua lại. Nhìn chung, những con cá đuối này bị giết và để thối rữa, làm mồi cho những loài ăn xác thối (scavenger). Điều này chắc chắn là đáng tiếc bởi vì chúng có thể được đem bán cho thị trường cá cảnh và thu được khối tiền. Một vài biến thể cá đuối chỉ phân bố ở những vùng nhất định và rất hiếm, chẳng hạn như cá đuối trân châu (pearl ray). Cá đuối cũng là loài cá thịt quan trọng. Cả hai góp phần vào việc chính phủ Brazil đề ra hạn ngạch xuất khẩu cá đuối hàng năm. Tuy nhiên, hạn ngạch này thường gây ra nghịch lý. Bởi vì nhiều loài cá đuối đáng giá trên thị trường cá cảnh hơn rất nhiều so với thịt của chúng. Một con henlei, leopoldi hay cá đuối trân châu còn sống trên thị trường cá cảnh thường có giá hơn lượng thịt mà một làng tiêu thụ trong vòng một tuần hay đủ cung cấp sữa cho cả năm trời. Ngoài một số ngoại lệ, hầu hết các loài cá đuối đều có số lượng đông đảo trong môi trường phân bố tự nhiên của chúng và bị coi là hiểm họa, điều cổ xúy cho lối suy nghĩ rằng việc buôn lậu cá đuối vào mùa cấm hay khi hết hạn ngạch xuất khẩu là chấp nhận được. Luật cung cầu chi phối thị trường này, và giá bán lẻ cao làm gia tăng động cơ. Cá đuối lậu thường đắt tiền hơn và không mạnh khỏe bằng cá xuất khẩu qua những kênh hợp pháp bởi vì chúng phải trải qua quá trình vận chuyển cực kỳ khó khăn. Có rất nhiều câu chuyện về cá đuối (và cả những loài động-thực vật lậu khác) được giấu bên trong các can đựng dầu hay dưới khoang thuyền chài. Rất may là chúng không vừa với túi quần!