+Tên khoa học: Psammoperca waigiensis (Cuvier,1828)
+Tên tiếng anh: Waigieu Seaperch
+Họ : Latidae
+Bộ: Perciformes
+Đặc điểm:
Thân hình thoi, dẹt bên. Chiều dài thân bằng 2,7 – 3,6 lần chiều cao. Đầu to, mõm nhọn, chiều dài hàm trên kéo dài đến ngang giữa mắt. Hai vây lưng liền nhau, giữa lõm. Vây đuôi tròn lồi. Thân màu nâu xám, bụng trắng bạc. Chiều dài lớn nhất 47cm, thông thường 19 – 25cm.
+Phân bố:
Ấn Độ – Tây Thái Bình Dương, Ên Độ, Srilanca, Australia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lan.
Ở Việt Nam cá có phân bố từ vịnh Bắc Bộ đến vịnh Thái Lan nhưng ít.
+Tập tính:
Sống trong các hang đá hoặc vùng đáy có cỏ biển. Cũng thích nghi nơi đáy là các rạn san hô. Ban ngày thường ẩn mình trong các bụi rong hoặc hang đá, có phân bố cả vùng nước lợ.
Sinh trưởng nhanh, thức ăn là các loài cá, giáp xác…
+Hiện trạng:
Đã được nuôi ở Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan và ở Việt Nam mới được nuôi ở Miền Nam. Các kiểu nuôi chính: trong các ao đất và lồng lưới.
Ở Việt Nam đã nghiên cứu sản xuất giống cá này.
+Tên tiếng anh: Waigieu Seaperch
+Họ : Latidae
+Bộ: Perciformes
+Đặc điểm:
Thân hình thoi, dẹt bên. Chiều dài thân bằng 2,7 – 3,6 lần chiều cao. Đầu to, mõm nhọn, chiều dài hàm trên kéo dài đến ngang giữa mắt. Hai vây lưng liền nhau, giữa lõm. Vây đuôi tròn lồi. Thân màu nâu xám, bụng trắng bạc. Chiều dài lớn nhất 47cm, thông thường 19 – 25cm.
+Phân bố:
Ấn Độ – Tây Thái Bình Dương, Ên Độ, Srilanca, Australia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lan.
Ở Việt Nam cá có phân bố từ vịnh Bắc Bộ đến vịnh Thái Lan nhưng ít.
+Tập tính:
Sống trong các hang đá hoặc vùng đáy có cỏ biển. Cũng thích nghi nơi đáy là các rạn san hô. Ban ngày thường ẩn mình trong các bụi rong hoặc hang đá, có phân bố cả vùng nước lợ.
Sinh trưởng nhanh, thức ăn là các loài cá, giáp xác…
+Hiện trạng:
Đã được nuôi ở Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan và ở Việt Nam mới được nuôi ở Miền Nam. Các kiểu nuôi chính: trong các ao đất và lồng lưới.
Ở Việt Nam đã nghiên cứu sản xuất giống cá này.